Lời Hòa Thượng Giảng: Hồi quang phản chiếu & Phản quan tự kỷ

Trước hết tôi nói về “Hồi quang phản chiếu”. Chữ “hồi” là quay lại, “quang” là ánh sáng, “phản” là trở lại, “chiếu” là soi sáng. “Hồi quang phản chiếu” tức là quay ánh sáng trở lại, soi rọi chính mình. Soi thế nào? Nhiều người không hiểu, tưởng ngồi nhìn chăm chăm thấu tim gan ruột phổi, đó là phản chiếu. Hiểu như vậy là sai lầm. Tôi sẽ dẫn kinh để nói rõ hơn về điều này.HT. T.T.T (Xem tiếp...)

I.
Trong kinh Lăng nghiêm, khi Đức Phật đưa tay lên hỏi ngài A-nan thấy không, ngài A-nan trả lời thấy. Rồi Phật để tay xuống hỏi ngài A-nan thấy không, ngài A-nan trả lời không thấy. Ngay đó Phật liền quở Ngài là quên mình theo vật. Tất cả chúng ta từ người trí thức cho tới kẻ bình dân, suốt ngày ai cũng phóng sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đuổi theo sáu trần bên ngoài, luôn luôn phân tích, chia chẻ, tìm hiểu. Cứ thấy hình sắc thì phân tích đẹp xấu, nghe âm thanh cũng phân tích tiếng hay dở v.v… Đối diện với tất cả cảnh giới bên ngoài, đều đem hết khả năng soi sáng của mình phân tích, chia chẻ sự vật. Càng phân tích, chia chẻ nhiều chừng nào thì càng quên mình nhiều chừng ấy.

II.
Do đó mắt vừa thấy hình tướng thì nói thấy, khi hình tướng mất đi nói không thấy. Đó là chúng ta phóng ánh sáng của mình đuổi theo vật, hay nói cách khác là phóng quang chiếu ngoại. Phóng quang này không phải phóng quang của chư Phật, mà đem cái tri giác hiểu biết của mình phóng ra ngoài để phân tích, chia chẻ sự vật. Vì vậy khi có sự vật thì tưởng như có mình, khi mất sự vật tưởng như mất mình. Đó là một mê lầm rất đáng thương.

III.
Phật quở ngài A-nan quên mình theo vật là vì thế. Cánh tay là vật ở ngoài, còn cái hay thấy tức là ánh sáng của chính mình. Khi có cánh tay Ngài nói thấy, khi không có cánh tay Ngài nói không thấy. Như vậy nhớ mình hay nhớ vật? Rõ ràng là nhớ vật mà quên mình. Đúng ra khi thấy cánh tay nên nói thấy có cánh tay, khi tay để xuống nên nói thấy không có cánh tay. Tay khi có khi không, cái thấy luôn luôn sẵn có. Nếu tay để xuống nói không thấy như vậy thành mù sao?

IV.
Chúng ta mê muội chỉ nhớ vật ở ngoài, không nhớ cái hay thấy của mình. Chính cái hay thấy mới là mình, còn vật ở ngoài chỉ là ngoại cảnh. Quên mình theo vật, đó là chỗ tất cả chúng ta đang mắc phải. Mắt thấy sắc chỉ nhớ cảnh nhớ người mà không nhớ có cái hay thấy. Chúng ta tu hành thường vướng hai chứng bệnh rất nặng, rất sâu kín, đó là quên mình và mắc kẹt ngoại cảnh. Vì vậy các thiền sư thường dạy nơi sáu căn phải luôn gìn giữ đừng cho dính mắc sáu trần. Dính mắc tức là chạy theo, mà chạy theo tức là quên mình. Đó là gốc của sự tu.

V.
Trong sáu căn dễ nhận dễ thấy nhất là mắt và tai, nên các thiền sư dùng nhiều thủ thuật để chỉ hai tánh thấy và nghe đó. Hoặc đưa phất tử, hoặc đưa cành hoa v.v… để nhắc nơi chúng ta có cái hay thấy. Nếu ngay hình ảnh đó, ta nhớ được mình có cái hay thấy là nhớ được tâm chân thật rồi.

VI.
Hình ảnh Phật đưa cành hoa sen lên, ngài Ca-diếp mỉm cười, đó là sự cảm thông của hai thầy trò, Tôn giả đã lãnh hội được điều Đức Phật muốn chỉ. Thấy cành hoa không lệ thuộc vào cành hoa, mà biết được mình có cái hay thấy. Khi Phật đưa mắt nhìn khắp đại chúng, tới Ca-diếp Ngài cười. Đó là đệ tử hiểu được ý Phật, nhìn cảnh mà chẳng quên mình, hay nói cách khác là nương nơi cảnh mà thấy mình. Vì vậy trong nhà thiền có câu "kiến sắc minh tâm". Nghĩa là thấy hình sắc bên ngoài mà sáng được tâm của mình.

VII.
Tâm mình ở đâu? Lâu nay nhiều người cứ cho tâm là cái suy nghĩ lăng xăng lộn xộn hằng ngày, không ngờ cái hay thấy hay biết mới là tâm mình. Tâm đó không có lăng xăng lộn xộn. Thấy được cành hoa là chỉ cho "kiến sắc", nhận ra mình có cái hay thấy, hay biết hằng hữu không thiếu vắng là "minh tâm". Rõ được tâm mình thì không chạy theo vật. Nếu chỉ biết cành hoa bên ngoài, có thì nói thấy, không có thì nói không thấy, đó là quên mình theo vật. Quên mình theo vật là mê, nhớ mình không theo vật là giác.

VIII.
Như vậy thì hồi quang phản chiếu nghĩa là soi ánh sáng trở lại mình. Thay vì trước kia ta phóng ánh sáng ấy theo sáu trần, bây giờ dừng lại, nhớ ánh sáng đó hiện hữu nơi sáu căn của mình, không theo sáu trần nữa. Đó là trọng tâm các thiền sư dạy cho chúng ta. Người được thấy như mù nghe như điếc, dù ngồi giữa chợ cũng như ngồi thiền.
Chúng ta nhiều khi ngồi thiền tại thiền đường mà ai nói gì cũng lắng tai nghe. Ngồi thiền như vậy cũng giống như ngồi ngoài chợ. Các thiền sư luôn nhắc chúng ta phải hồi quang phản chiếu, quay lại nhớ mình, đừng nhớ cảnh. Đó là gốc của sự tu.

Thiền sư nhờ tu như thế nên các ngài không bận bịu, không kiềm chế, sống rất tự tại thoải mái, thấy nghe đều không dính. Nếu chúng ta tu được vậy có thích không? Rất thích. Nhưng vì mình chưa được thế nên phải có câu thứ hai, tức là “phản quan tự kỷ”. Chữ “quang” của hồi quang có “g” để chỉ ánh sáng. Chữ “quan” của phản quan không có “g” để chỉ sự xem xét quán chiếu.


**************
Phản quan tự kỷ
**************
IV.
“Phản quan tự kỷ” nghĩa là xem xét lại mình, quán chiếu lại mình. Hồi quang phản chiếu có tánh cách kỳ đặc dành cho bậc thượng cơ, nhất là những vị tu theo Thiền tông. Còn phản quan tự kỷ là nói tổng quát, bao trùm hết thảy giáo lý nhà Phật.

Nghĩa là soi xét lại chính mình, từ thân thể cho tới nội tâm, thấy rõ thân thể, nội tâm như thế nào.

X.
Ví dụ Phật dạy tu thiền, quán Tứ niệm xứ là pháp căn bản trong các kinh A-hàm. Quán Tứ niệm xứ là quán cái gì?

Một, quán thân bất tịnh, xem xét phân tích tường tận từng bộ phận thân này, thấy đều nhớp nhúa, đó là quán thân bất tịnh.
Hai, quán thọ thị khổ, tức là tất cả cảm giác do sáu trần đến với mình, ta cảm nhận rõ ràng chúng đều vô thường, không thật có, là gốc của đau khổ.
Ba, quán tâm vô thường, tức những tâm niệm của mình luôn luôn sanh diệt, không dừng, đó là quán tâm vô thường.
Bốn, quán pháp vô ngã tức là quán tất cả pháp, từ tâm pháp cho tới ngoại cảnh đều do duyên hợp không có chủ.

XI.
Phật dạy vị nào cột tâm trong Tứ niệm xứ được bảy ngày không dời đổi, người đó sẽ chứng quả A-la-hán. Chẳng những bảy ngày mà ba ngày, chẳng những ba ngày mà một ngày, cột tâm trong Tứ niệm xứ không dời đổi sẽ chứng quả A-na-hàm. Chúng ta thấy tu dễ chứng quá, phải không?
Chỉ cột tâm trong Tứ niệm xứ trọn ngày không dời đổi liền chứng quả A-na-hàm. Quán như thế là phản chiếu lại mình, soi sáng lại mình, xét nét lại mình, nên pháp của các kinh A-hàm hay của Phật giáo Nguyên thủy vẫn là pháp tu “Phản quan tự kỷ”. Cho tới như không dùng Tứ niệm xứ, mà dùng Ngũ đình tâm quán thì cũng là soi xét lại mình. Đó là nói hệ thống A-hàm.

XII.
Qua hệ thống Bát-nhã, mỗi đêm chúng ta đều tụng “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chiếu kiến ngũ uẩn của ai? Ngũ uẩn của mình. Như vậy cũng là soi sáng, xét nét lại chính mình để biết rõ năm uẩn không thật, không có thực thể, từ đó mà qua tất cả khổ nạn. Chúng ta thấy từ hệ A-hàm tiến lên hệ Bát-nhã, Phật đều dạy phản chiếu lại mình.

XIII.
Đến Thiền tông tôi thường hướng dẫn quý thầy cô nhìn lại từng niệm khởi, đừng chạy theo nó, gọi là biết vọng không theo.

Như thế có phải phản quan không? Nếu không xoay lại làm sao thấy niệm khởi? Rõ ràng đó là lối phản quan.

XIV.
Tóm lại, từ pháp tu A-hàm, pháp tu Bát-nhã, tới pháp tu Thiền tông đều dạy phản quan. Như vậy toàn bộ hệ thống tu của đạo Phật đều lấy phản quan tự kỷ làm trọng tâm.

XV.
Câu “hồi quang phản chiếu” mới nghe thấy tương tự nhưng thật ra có khác. Đây là trường hợp dành cho những bậc kỳ đặc như Tổ Lâm Tế hay Lục tổ Huệ Năng.
Lục Tổ Huệ Năng khi thấy tăng ngồi thiền, ngài liền kéo lỗ tai thổi phù. Ngài Lâm Tế cũng không thích ngồi thiền, vậy các ngài tu cái gì? Các ngài luôn hồi quang phản chiếu, tức nhớ nơi sáu căn thường sáng rỡ, không phóng ra ngoài.

XVI.
“Hồi quang phản chiếu” và “Phản quan tự kỷ” là nền tảng của tất cả người tu Phật chúng ta. Nếu mình làm chưa nổi trường hợp thứ nhất, thì phải theo trường hợp thứ hai, tức là phản quan tự kỷ.

XVII.
Chừng nào nội tâm trong sạch, yên lặng hết mới bước qua trình độ thứ nhất là hồi quang phản chiếu. Đi đứng nằm ngồi mà không dính nghiệp gì hết. Thấy như mù, nghe như điếc, đó là tự tại vô ngại.

XVIII.
Tăng Ni nên nhớ trường hợp hồi quang phản chiếu chỉ dành cho người nào triệt ngộ, nghĩa là đi đứng nằm ngồi không quên mình, mới dùng được. Ai còn quên mình thì khoan dùng, dùng rất nguy hiểm. Tăng Ni cần phải nắm thật vững, hiểu cho tường tận như thế, để trong sự tu ứng dụng đúng, đạt kết quả tốt, không bị lầm lẫn đáng tiếc.
Đây là ý nghĩa tôi muốn nhắc nhở nhân ngày đầu năm.
HT.Thích Thanh Từ http://www.giacngo.vn/phathoc/thient.../02/07/164401/

***************
***************
Viết cho Diễn đàn:

I. Mở đề:
Chào các bạn,

Theo cp nhận xét đây là một bài giảng thật là quan trọng cho tất cã Phật tử theo Chánh Pháp. Tu hành theo gương Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy.

Hòa Thượng giảng thật là dể hiểu, nếu ta không để ý từ câu, chia ra từng đoạn như trên thì cũng có thể là bỏ đi cơ hội thâu nhập lời hay ý đẹp của Ngài.

Nhưng vẫn còn một việc rất quan trọng khi chúng ta sao chép để học hay là với tính chất truyền bá, thì làm sao cho thật đơn giản, tạo bài văn cho Độc giả chú ý, thế nào? Về căn bản, người viết thực hiện ba điều cần "Có" khi sao chép là...
1. Sắp đặt bài văn trong Khuôn khổ tối đa: A.4 trang giấy.
2. Màu sắc cho tiêu đề, chánh đề, kết luận và các tranh ảnh, âm thanh để gợi ý hướng dẫn cho bài văn.
3. Chú thích: Nơi xuất xứ, Tác giả, dịch giả và nội dung phải đi sâu vào Kinh Luật Luận.

*****
II. Chánh đề:

Trở lại đề tài sự khác biệt giữa phản quan tự kỷ hồi quang phản chiếu thế nào?

Hòa Thượng giảng ''Hồi quang phản chiếu'' nghĩa là quay ánh sáng soi lại chính mình, tức là quán chiếu nội tâm chớ không chạy theo ngoại cảnh.

Ngài đã dựa vào kinh Lăng Nghiêm "Phật dạy cho Ngài A-nan xem xét tâm như thế nào...'' Ngài A-nan lại đại diện cho các Học giả Phật tử trả lời 7 lần, Phật điều bát tất cả. Điều này các bạn nên xem lại toàn bộ Kinh Lăng Nghiêm, trước khi tìm hiểu thêm lời HT. Cho dể thu nhập.

Từ Phần I tới VIII. Ngài giải thích từ trong Kinh Lăng Nghiêm cho đến ý nghĩa của từ ngữ ''Hồi quang phản chiếu'' là gì, là điều do căn trần thức của 6 giác quan dẫn ta đi vào lục đạo luân hồi.

Sau đó sự giác ngộ của Tổ Ca-diếp, khi Phật đưa cành hoa sen...
Khi đã hiểu cách thức Tu Thiền Đốn Ngộ của các Thiền Sư rồi thì thực hành thật là dể.

Nhưng ngày nay, chúng ta hiểu thì có hiểu, mà thực hành thì không thể thực hành như các bậc Thiền sư được, Là tại sao?

Do đó, tới giai đoạn hai, Hòa Thượng giải thật là dể hiểu về ''Phản quan tự kỷ'', theo tôi thì các bạn đọc qua là hiểu liền, khỏi cần thắc mắc hoặc tìm sách vở để tham khảo thêm.v.v.
Vì từ Phần IX cho tới phần XIII. Giống như một bản đồ hướng dẫn. Thật là dể hiểu vậy.

III. Kết luận:

1. Bài giảng gồm có hai phần chánh:
Phản quan tự kỷ nghĩa là gì? và Hồi quang phản chiếu nghĩa là gì?

2. Hồi quang phản chiếu: Dành cho bậc Thượng căn đã có nhiều đời nhiều kiếp tu hành, ngày nay gặp được Thầy lành bạn quí mà tự khai ngộ. Ngày nay các học giả thường gọi là tu thiền đốn ngộ. (cp nghĩ về từ ngữ khác như là Thiền công án, Tham thoại đầu, hoặc hành giả tu tối thượng thừa. Pháp Không tánh.v.v. Thì cũng không ra ngoài ''Hồi quang phản chiếu''.

3. Phản quan tự kỷ: Thuộc về thiền chỉ quán, tu tiệm, căn cơ nào cũng tu được, pháp môn nào cũng có sự tương hợp hợp với sở thích hành giả. Nên nhớ là ''chúng ta tự xét lại mình trước khi thực hành'' Nếu có gặp được Thiện Tri Thức thì sự ưu đải của ta sẽ càng nhanh hơn. Chúc các bạn nhiều mai mắn. (Cầu Pháp).

Lưu ý: Bài giảng của HT. Thích Thanh Từ không phải chỉ là dành riêng cho các môn sinh thôi, mà Ngài đã giảng cho tất cã hàng tứ chúng Phật tử, Nam Tông cũng như Bắc Tông. Không phân biệt căn cơ, không nói cao thấp về Pháp môn tu hành. Thật là một bài giảng bình đẳng, từ bi và đầy đủ trí Huệ.