zaterdag 17 april 2010

Thập tiểu luận

Chơn ngã thập tiểu luận! Cư sĩ tại gia.
(Bài làm số 7)
I. Mở đề:



Mười tiểu luận cho hàng cư sĩ tại gia là sự học hỏi, hiểu biết từ giáo lý chơn ngã trong kinh Pháp Cú.
Áp dụng vào đời sống hiện tại, vì nhân đó đã luận bàn ra 10 tiểu luận.
Luận bàn ở bài này không phải là Kinh Luật Luận bàn, hay giống như các vị giảng sư, Tri thức, Trí thức từng đã làm. Mà chính là.


Học lại, ôn lại, thực hành, và thanh lọc các lý tánh bất thiện trong quá khứ, hiện tại thực hành theo lý tánh thiện, và ngăn ngừa hành vi bất thiện.
Thực dụng cho học tập đã chia ra từ 10 tiểu luận, thành lập ra 2 phần là.
Trắc nghiệm thân tâm và Thực thi thân tâm. Chính là.


a)- Ta đối với người,
b)- Người đối với ta,
c)- Nhơn ngã nhân sinh,
d)- Tự ngã nhân sinh.


II. Nhập đề:


Chơn ngã: Chơn: Thật, chánh, Ngã: Tâm, ý. Là tâm chơn thật, không phiền não, không ngã mạn, không thủ đoạn lừa đảo.
Người có tâm chơn ngã lòng luôn luôn biết đủ, như người đói ăn, khát uống. Là người không màng danh vọng. (Tiền, Tài, Danh, Sắc, Dục. Và không còn Tham, Sân, Si).
Luôn luôn giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh, có tâm từ bi.
Hành động điều có sự suy nghĩ đem lại sự lợi ích an vui cho đời.


Thập tiểu luận: là 10 quán xét phân biệt nhỏ.


Cư sĩ tại gia: Người tu tại nhà.. Sống đời có đạo (Biết thiện ác). Hay đời đạo song song (Làm đều hữu ít cho đời, mong cầu chánh Pháp tu thân).


Xem Kinh Tứ Thập Nhị Chương. Chang 12. Có 20 điều khó. Thấy Phật, Nghe Kinh là khó? -Thấy Phật, Nghe Kinh là khó. Thật vậy, chỉ cần mở Internet trang Phật-giáo thấy ngay. dể quá, nhưng người không tiếp thu được cho nên gọi là khó.

Nhưng chúng ta rất mai mắn, đã đọc được kinh này. Và thực hành theo các giáo Pháp của các bậc Tri thức. Nên không thể học suông một lần là đủ, hoặc lấy giáo Pháp đem ra luận bàn. Thì sự lợi ít không rốt ráo.


Vì kinh này thực thể là tâm kinh, mà tất cả các nhà tâm lý học, triết học, khoa học.v.v. Cũng đều vựa vào Chơn ngã tâm kinh này.


Thời công phu lạy Phật, huân tu thân tâm, kinh hành Niệm Phật, ngồi thiền, trì tụng kinh kệ chính là Thiền Định, từ Thiền định mới sanh trí hụê (hay gọi là Tụê giác).


Trong Kệ Phật thuyết:


Các người hãy tự mình nỗ-lực,
Như-Lai chỉ là bực dẫn đường.
Thực-hành thiền-định cho thường,
Thoát vòng kiềm-toả Ma-vương buộc-ràng.
(Kệ số 276.)

Nhưng ngoài thời gian ấy ra ta phải làm gì? - Phải luôn luôn Tỉnh giác, Tỉnh giác phải học từ nơi kinh. Kinh dạy cho tất cã mọi người, mà mọi người thì có trình độ khác nhau, khác nhau tất có luận bàn, Chính là hồi quang phản chiếu. Cái học hỏi mới đạt thành.


Trong Kệ Phật thuyết:


Người tỉnh-giác, các căn điều-phục,
Đúng theo Chánh-pháp, cuộc mưu-sanh.
Việc làm cẩn-trọng, nhiệt-thành,
Ý, lời, hành-động cũng thanh-tịnh rồi.
Chẳng hề phóng-dật trong lối sống,
Danh-tiếng người nầy tăng-trưởng thật cao.
(Kệ số 024).


III. Chánh đề:


Tỉnh giác, chính là tỉnh táo, hay bình tỉnh với tất cã loài hữu tình, với tất cã thuận/nghịch duyên trong sự sống hàng ngày. Thí dụ sự sống của người xuất gia, khác với tại gia, người nghèo khác với người giàu, người ốm yếu khác người khỏe mạnh.v.v.


Trong sự sống chúng ta đâu hiểu hết về nhơn ngã nhân sinh từng cá nhân. Và tâm chơn ngã nhân sinh cũng không ứng dụng cho mỗi trường hợp.


Vì vậy muốn biết nhiều chúng ta cần phải áp dụng theo mỗi bài kệ trong kinh.
Trước trắc nghiệm, sau là thực thi.


Trắc Nghiệm Thân Tâm: Có tất cã là 423 kệ học ôn lại trong 5 tiểu luận.


1.Kinh Pháp Cú là gì!
2. Văn vần, thơ thuận, thi kệ cái nào dể học hơn.
3. Văn Tư Tu Tự Ngã Luận.
4. Nhơn Thiện/ác, Quả Thiện/ác.
5. Nhơn Quả Pháp Cú Luận.




Thực Thi Thân Tâm: Bạn tự lựa chọn bài kệ nào thực dụng, có thể áp dụng. Vào các câu vẩn đáp như sau.


06. Tri Nhơn Pháp Cú luận = Xét người hành pháp luận giải kệ vấn đáp, (thí dụ: Tri nhơn tri diện bất tri tâm.)- Chú thích này rất khó luận giải, nếu không khéo, thành chỉ trích chê bai, phải mang tai họa vào thân. Chú thích bằng Văn,Tư,Tu huệ mà nhiếp phục. 1- Nhìn Y-Báo thế nào, quán Chánh-Báo thế ấy về phiến diện bề ngoài, 2- Thấy hành động tạo tác thiện ác của người để quán lại hành động tạo tác thiện ác của mình, 3- Ngừa bệnh hơn trị bệnh, gần mực thì đen gần đèn thì sáng v.v.


07.Tri Ngã Pháp Cú luận = Xét Danh Sắc Hành Pháp Luận giải kệ vấn đáp, tương tự như Hồi quang phản chiếu. Chú thích những việc đã qua, việc hiện nay và việc ngày mai v.v.


08. Đạo Đời Pháp Cú chuyện luận = Chuyện đạo đời Hành Pháp Luận giải kệ vấn đáp. Chú thích lại chuyện của mình, của người, chuyện đạo có nội dung trong bài luận v.v.


09. Dụ Ý Pháp Cú luận = Thí dụ ý Hành Pháp Luận giải kệ vấn đáp. Chú thích, thí dụ về người vật, Hữu vi vô vi, đất nước gió lửa. 2- Dụ ý sao cho dể nhớ, dể hiểu v.v.


10. Chân Thiện Mỹ, Ý Pháp Cú luận = Chân thật nhứt, hoàn thiện nhứt, đẹp trong lẫn ngoài nhứt, ý nghĩa đầy lời hay ý đẹp nhứt (hoàn thiện hảo ý), Hành Pháp Luận giải kệ vấn đáp. Chú thích lại câu ca dao, tuc ngữ, Nho, Kệ sao cho dể nhớ, dể hiểu. (Vì Pháp Vị chỉ một vị, mà người đang thọ hưởng Pháp Vị lại khác nhau.)

 
IV. Kết luận:


Thời đức Phật Thích Ca thành đạo, Ngài là Thánh Nhân người phàm như chúng ta. (Trong sách sử 49 năm hành đạo). Trong hàng tăng chúng, và cho người phàm tục (hơn 2554 Phật lịch =2010). Ngài giáo hóa trăm ngàn trường hợp, Sao hơn 300 năm sao. Các đệ tử đã kết hợp, sao chép lại. Cho mỗi trường hợp là một câu chuyện, mỗi câu chuyện đều diển tả ra bằng các bài kệ Pháp Cú.


Người đời ngày nay văn minh hơn người xưa. Tâm nhơn ngã vĩ nhiên cũng hơn người xưa (Là tâm cầu tiến, nên mới tranh đấu, thành chiến tranh. Mạnh hiếp yếu. v.v. Là tâm đầy giả tâm, ngã mạn, lừa đão, tràn đầy dục vọng.) Nên có câu: Tôn giáo đại đồng, Thiên hạ đại loạn là vậy.


Tâm nhơn ngã thị phi sẽ thay đổi theo thế hệ con người. Ác lại càng ác thêm.


Tâm Chơn ngã thì không thay đổi hằng thường. Chơn ngã thì vĩnh viển trường tồn. Người xưa đi tìm chân lý đoạn trừ đau khổ, Thì người nay cũng đi tìm chân lý đoạn trừ đau khổ.


Hành giả đã hiểu giữa tâm. Nhơn ngã và Chơn ngã rồi thì mới biết là rất quan trọng. Kinh Pháp Cú thật sự là Chơn ngã kinh. Là Pháp hữu vi nhân gian.

Luận bàn chỉ được tốt nơi học giả, riêng hành giả luận đây là tìm rõ nguyên nhân để biết chắc chắn mà thực hành. Chính là trắc nghiệm và thực thi thân tâm trong đời sống hàng ngày.
------------------------------



Quyết Nghi: Luận Bàn.
Luận bàn kiến học bằng trí thức, bên hàng cư sĩ Tịnh độ thì không được tốt. Vì muốn minh tâm, phải thực hành theo Tín Hạnh Nguyện. Luận bàn: Là ý kiến cá nhân của một người, hay của một nhóm người. Khi chưa thành lập làm một, hay thống nhất. Còn gọi là hợp, hội, phát biểu ý kiến hay giã thuyết.v.v.

Bên hàng cư sĩ Thiền tông luận bàn phá chấp lại là dao hai lưỡi. Vì ta còn tâm nhơn ngã, kiến thức so sánh, cao thấp của thế gian. (là người mới nhập môn, Nội ngoại pháp hữu vi chưa thông suốt, Thiền định còn thấp chưa phát sanh tuệ giác) Nhẹ thì bịnh trầm cảm, bỏ đạo, nặng thì sa vào địa ngục vì sự phá chấp sai lầm, vì không có thiện căn.


Cũng gần cùng nghĩa tương tự như: Thuyết Pháp, Vấn đáp.


Luận Bàn giống như con dao hai lưỡi, là chiến tranh lạnh hay đấu võ miệng.


Kết quả: Chiến thắng mang thù hận, thấp bại chịu khổ đau. Vì


Cái đúng, tốt thì sẽ đúng, tốt hơn (trở thành hiệp, hội, đạo.v.v.).
Còn sai, xấu thì sẽ xấu hơn. (Xã hội sẽ mục nát vì thiếu văn hóa, đạo đức, người sẽ khổ sở hơn vì cái cố chấp, bảo thủ, cuồng loạn đó).


Sách sử đã ghi chép lại nhiều trung thần chỉ vì khuyên vua mà bỏ mạng.


Những văn sĩ cải cách đất nước mà thành thân tàn, danh liệt. Chính vì không cân bằng được Khế lý, Khế cơ. Cùng Chánh Báo, Y Báo.


Luận bàn có lợi ích!

Thứ nhứt cho người mới học.


Thứ hai vì muốn ôn lại bài,


Thứ ba học hỏi thêm kiến thức,


Thứ tư là học lại kinh nghiệm.


Thứ năm áp dụng vào đời sống hàng ngày.

Luận bàn không lợi ích!


Thuận luận khác ý. Nghịch luận khác ý. Thuận luận cùng ý. Nghịch luận cùng ý.


1. Thuận luận khác ý! – Thí dụ trong một hiệp hội cứu trợ nhân đạo, Nhân viên, ban đều hành. Thảo luận, ban hành ra nhiều cách hợp tình, hợp lý. Nhưng người không đủ thiện căn, đạo đức. Khi thấy lợi thì làm nghịch lại với ban đều hành (là khác ý).


2. Nghịch luận khác ý!- Chúng ta hãy xem phim, hay trong báo thử những hạn người này là ai?
Và thông thường nhất trong viển đàn. Khác tông phái, Khác đạo.v.v.


3. Thuận luận cùng ý! – Thí dụ: Cha mẹ dạy con, thầy dạy trò, chồng dạy vợ, anh dạy em. Vì người dạy cũng như người nghe biết theo chánh Pháp theo Khế Lý, khế Cơ. Có Chánh Báo, Y Báo. Và thông thường người theo Tịnh độ tông.


4. Nghịch luận cùng ý! – Thí dụ: Cùng một dân tộc, cùng một gia đình thì binh vực lẩn nhau,


Hoặc cùng một đạo Phật mà chia ra Nam Tông, Bắc Tông; Đại thừa, tiểu thừa. Nhưng cùng chung tạo đoàn kết, cùng ý đoạn khổ, lìa ái. Nhưng hành động có nghịch duyên khác nhau. Xem những thí dụ dưới đây.


Bài văn 1:


Phật pháp vô biên không thể luận bàn!
Khéo dùng phương tiện, lại càng khó thêm.
Chuyên tâm nhứt niệm một lòng.
Khéo chi phương tiện, luận bàn vô công.
@ Quản Hòa.

Bài văn này khuyên ta đừng nên luận bàn! Và đừng nên dùng phương tiện!


Phật pháp vô biên không thể luận bàn! – Phật thuyết, Pháp ta chỉ có một vị là đoạn trừ đau khổ.


Nhưng các kinh điển viết có hơn tới tám vạn bốn ngàn Pháp. Nếu kinh nào chúng ta cũng học, cũng luận bàn. Có thể trở thành một giảng sư pháp. Nhưng cũng không bằng một hành Pháp (Thiền định). Lời nhận xét của Sư cô Thích Nữ Tuệ Nhi. http://sites.google.com/site/layphat/thien-tri-thuc  


Bằng chứng có nhiều người chuyên thuần Niệm Lục tự Di Đà. Cũng tới giác ngộ viên thông. Và được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Vậy học giáo lý là để thực hành, không phải đem ra bàn sẽ làm trở ngại đường tu. “là vậy”.


Khéo dùng phương tiện, lại càng khó thêm. – Là cách thức, hình thức, phương pháp. Thí dụ như cho tiền họ, cho kinh họ đọc, rồi nhắc nhở họ học theo ta. Nhưng khó là họ không giống cùng ý nghĩ như ta! Lại nữa họ chưa từng học abc (Vô minh), ta khuyên họ nên đi lấy bằng bác sĩ (quang minh) Họ không làm được, ngược lại cho ta là người cuồng đạo. Bởi gì chúng ta chưa đủ tài đức để dùng phương tiện Bố thí Pháp.v.v. cái thứ hai chưa đủ chứng minh cho họ là bạn đã đạt được giáo lý này. Bạn còn là phàm nhân, còn nhiều tham, sân, si. Nên bố thí Pháp không đạt nhiều kết quả, mà lại làm trể nải thêm đường tu.


Chuyên tâm nhứt niệm một lòng.- Nhứt niệm nói ở đây là nhứt tâm. Ngoài đời chúng ta thường nghe Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Có được một nghề để nuôi thân rồi, thì đừng đòi hỏi cao hơn nửa. Giữ lấy nó, làm lâu ngày, có kinh nghiệm, cần tinh xảo. Thì có quy tín, tất nhiên có khách hàng. Nói thêm! Thí dụ như chúng ta ở xứ người, trong cơn hoạn nạn không tiền bạc, thì ta có cái nghề, đem ra xử dụng, cũng đở cực thân hơn người vô nghề nghiệp.


Trong đạo lý cũng vậy. Khi ta Niệm Phật thuần, chỉ nhớ lục tự Hồng Danh, đi đứng nằm ngồi luôn luôn niệm. Từ từ thành thói quen, Từ thói quen sẽ thấm từ từ vào tâm thức (thức thứ 8 trong Duy Thức Tôn). Cã lúc ngũ mơ cũng thấy mình Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Rồi ánh sáng Phật, Pháp, Tăng, tìm ẩn trong tâm thức, sẽ phá tan màng vô minh (Tham, Sân, Si).


Là Từ Nhơn ngã tâm tiến tới Chơn ngã tâm. Kiến tánh thành Phật, Vãng sanh tịnh độ, cỏi A Di Đà. “Chỉ đây là thí dụ! Tôi cũng như các bạn chỉ là người đang học. Cái gì không biết không dám nói.”


Khéo chi phương tiện, luận bàn vô công. - Kết luận lại khi chúng ta làm một việc tốt, trong gia đình, bà con, lối xóm đều biết. Rồi sẽ bắc chước theo. Là phương tiện bằng hành động chính mình. Trong đạo gọi là không nói, mà nói. (Chơn ngã vô tự kinh). Thí dụ: Người đã vãng sanh, để lại xá lợi tử. Khi chúng ta thấy được, sanh tâm thiện, muốn tu. Chính đó là phương tiện tự sanh. Ý câu này là vậy.


Bài văn 2


Phật pháp vô biên tập luận bàn.
Bớt đi độc đoán sáng hơn thêm.
Chuyên tâm học đạo, dưỡng tâm.
Trí càng thêm sáng, tâm càng thêm trong.
#
Phật pháp vô biên khó diển bày.
Khéo tìm phương tiện dắt chúng sanh.
Trì công gắng sức một lòng.
Đức dày Phật giúp vẹn toàn giác tha.
@DL

Bài văn này khuyên ta luận bàn, và nên dùng phương tiện!


Trong bốn câu đầu diễn tả là:
Câu 1. Người mới vào cửa, nên cần phải học, suy nghĩ và luận bàn cho thông suốt giáo lý.
Câu 2. Khi người còn vô minh (chưa hiểu thiện ác, chánh tà) cái ta của họ là độc ngã, độc tôn.
Câu 3 và 4. Học đạo là để tu tâm, dưỡng tánh.
Câu 5 và 6 Giáo lý Phật rộng sâu vô cùng tận, Nên cần giúp chúng sanh. Như cho người đi trong đêm, cầm đuốt, mồi lửa, ta cũng đâu mất lửa đi.
Câu 7 và 8 Chuyên tâm hành thiện, sẽ tạo thêm phước đức. Phật tại tâm, giúp người chính giúp mình. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Là vậy.

Câu hán nho 3


Tri giả bất ngôn-Ngôn giả bất tri!
@VnTubi

Tri giả bất ngôn! – Là người có trí tuệ, biết rành giáo lý, thì không dùng ngôn từ luận bàn. Càng luận sẽ càng sai. Người có trí sẽ dùng phương tiện bằng hành động học được, chứng được.


Ngôn giả bất tri! – Là người nói nhiều, cái gì cũng biết, cũng luận bàn. Nhưng thực hành lại không làm được. Bất tri là không có trí tuệ.

Ý nghĩa câu này, luận bàn không đúng, không luận bàn cũng không đúng. Vì Pháp chỉ có một vị mặn. Là đoạn trừ đau khổ. Người nào có tuệ giác, thì người đó tự hiểu thôi. Văn từ, luận bàn, là trí thế gian.


Kinh Pháp Cú này đem ra bàn luận rất đúng. Cho người mới bắc đầu học pháp. Vì muốn biết, phải học, học xong cần phải xuy nghĩ, xuy nghĩ xong, phải đem ra thực hành vào đời sống, hàng ngày. Là bài văn 2.


Kinh Pháp Cú này không đem ra bàn luận rất đúng. Cho người đã học và đang thực hiện pháp. Hiểu và áp dụng vào đời sống hàng ngày. Cũng chưa đủ, cần phải kiên trì thiền định (Huân Tu). Tự đoạn trừ đau khổ. Là bài văn 1.


Tóm lại:


Chúng ta là người mới học đạo thì phải càng nên tránh tranh chấp luận bàn thì ta mới mau chóng tiến tới hữu vi niết bàn (tìm vui, đoạn khổ).


Khi chúng ta phải bắc buộc luận bàn, khuyên nhủ, thuyết tháp hay vấn đáp ai. Hãy nên..


1. Xem lại truyện đạo: Người mù rờ voi.
2. Phật học Phổ Thông: Khóa hai bài thứ 8. Tinh thần Tứ Nhiếp Pháp. Là Bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp và đồng sự nhiếp.
3. Phật học Phổ thông: Khóa hai bài thứ 9. Tinh thần Lục hòa. Là Thân hòa đồng trú (ở), Lời nói hòa đồng (không cao thấp, sĩ nhục, to tiếng, ngã kiến), Ý hòa cùng vui, Giới hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân.
4. Khế lý, Khế cơ.
5. Chánh Báo, Y Báo.
6. Nghĩa Pháp Từ Thuyết cần thông suốt, có thứ tự.
http://sites.google.com/site/layphat/chon-nga-thap-tieu-luan-iii

Diễn đàn: http://thiennhan.freeforums.org/
http://phapcu.wordpress.com/






woensdag 7 april 2010

Chơn ngã Pháp Cú luận

Chơn Ngã Pháp Cú luận.
(Bài làm số 08)
I. Lời mở đầu:



Kinh điển nam tông nhiều, mà kinh điển bắc tông Phật-giáo cũng nhiều. Nếu chúng ta tìm đọc cũng phải mất dài ba năm. Còn như muốn học hết chưa chắc cã đời sẽ hết. Chớ đừng nói là y pháp phụng hành. Trong khi chúng ta còn đầy ấp thấp tình, lục dục, Còn tham sân si ngã mạn, ác kiến rất nhiều. Tự mình cũng thấy đều đó.


Nếu chạy theo hình bóng của tướng ngã thì bao giờ mới tu sửa thân tâm!


Trong Phật học. Chữ khổ là do ái sanh, Nếu đoạn khổ, thì tìm gốc của ái mà nhổ bỏ đi. Là tu sửa. (Góc của ái chính là sự sinh hoạt hàng ngày ta sống đây.) Vì vậy…


Tìm một quyển kinh để học thật không dể dàng như ta tưởng. Cho vừa với trình độ kiến thức, và phương tiện trong cuộc sống hàng ngày.


II. Mở đề.


Là đệ tử Phật dù là theo Bắc Tông hay là Nam Tông thì đều phải y theo Kinh Luật Luận. Làm sự nương tựa để Tu Hành.


Ngài Lục Tổ xưa kia nghe Đức Ngũ Tổ Giảng Kinh Kim Cang.
Tổ Vĩnh Gia Huyền Giác đọc Kinh Duy Ma Cật.
Tổ Trí Khải Đại Sư ngộ Kinh Pháp Hoa.
Chư Tổ Tịnh Độ từ Sơ Tổ là Ngài Huệ Viễn cho đến Ngài Ấn Quang thì không ai không trì tụng Kinh A Di Đà cả.
Trong Mật Giáo Tây Tạng thì Chư Tăng 6 thời Trì Tụng Kinh Luận. Mà ngộ chơn tánh.


Kinh Luật Luật chỉ là Phương Tiện để giúp tu hành tìm ra chơn ngã tánh.


Nhưng mà khi nào hành giả còn Chưa Chứng Ngộ Bản Tánh thì vẫn phải nương nơi Kinh Luật Luận để làm thước đo cho việc tu hành.


III. Nhập đề:


Nhưng ngày nay muốn học theo các chư tổ Thiền, cần học kinh Kim Cang, hay tổ Tịnh độ phải là kinh A Di Đà. Nếu chúng ta không đủ phương tiện và trình độ thì sau!


Các bạn đọc nên suy ngẫm lại xem. Rồi hãy tìm hướng đi cho mình.


Riêng kinh Pháp Cú thì không cần phải phương tiện, kiến thức, mà là đạo đời đi đôi. Thấy dể thì cũng dể, còn thấy khó cũng rất là khó. Tùy vào sự nhận xét của học giả. Tự mình minh tâm, kiến tánh. Là tất cã trong tâm kinh này.


Người tri thức chỉ cần ngộ được một bài kệ cũng đủ cả cuộc đời tu hành. Nên ở đây còn gọi là Chơn ngã Pháp Cú tâm kinh. Không hơn, không khác.


Chơn ngã Pháp Cú luận ngày nay là nguồn gốc trong kinh Pháp Cú. Không đi ra phạm vi kinh luật luận. Từ Giới, Định, Tuệ mà thành, từ văn tư tu mà lập thành.


Kinh Pháp Cú là quyển thứ hai trong Tiểu bộ kinh, thuộc Tạng kinh trong hệ PaLi. Chính là lời nói từ nơi kim khẩu Ngài xuất phát, trong thời Ngài còn thị hiện ở cỏi trần.


IV. Chánh đề:


Về đề tài này vẩn nói về kinh Pháp Cú. Như bạn đọc không có chủ tâm học. Thì cùng nên xem qua một lần tường tận. Có phải Pháp Cú kinh là Chơn ngã kinh không! Cái xã hội ngày xưa, có khác hơn ngày nay không!


Kinh Pháp Cú, thấy dể là sao!


                - Về Nghĩa thì ngắn gọn, bình dân. Xem sao, hiểu vậy.


               - Về Pháp thì sâu sắc, có khi một bài kệ chỉ hai câu, 16 chữ. Nhưng chúng ta phải thực hành cã đời.


               - Về Từ (văn) đơn giản, hiểu ngay, đạo đời không khác. (Nếu như bạn không chấp về tướng. Thì nên tự lựa chọn một tác giã riêng cho mình.)


                - Thuyết (lời giảng). Không có một nhà tâm lý học, triết giả, hay giảng sư nào khác hơn kinh Pháp Cú này.


Kinh Pháp Cú, thấy khó thật là khó! – Không thể luận bàn, Bởi ai biết thì mới thấy là quí, hay khó.


Chánh đề sau khi chúng ta tìm hiểu qua cách thức để chọn kinh, và xem kinh Pháp Cú, học và đang áp dụng. Thì mới biết chân thật giá trị ngàn vàng của quyển kinh này.


Tuy rằng không nghe truyền thuyết có vị tổ chứng nghiệm qua kinh này. Nhưng hầu như bên Nam Tông Phật-giáo đều phải biết qua. Và cho tới ngày nay.

V. Kết Luận:


1. Bạn chọn được một quyển kinh cho bạn thì không phải dể.


2. Về quyết nghi chấp và tin tấn cũng khó phân biệt, cần phải ra công (Thiền- định, và luôn luôn Tỉnh-giác. Nên cũng không phải dể.)


3. Học một luận mười, tuy chậm nhưng chắc. Tránh bị lầm, và uổn phí thời gian.


Không thành Phật được, nhưng trong đời này ít nhiều cũng vơi đi phần đau khổ, và tìm được hạnh phúc cho mình, cho người chung quanh, và cho đời.


4. Cuộc sống người tại gia khác người xuất gia, người mạnh khỏe khác người đau ốm thì làm sao biết được cái khổ của người khác.


Nên học xong chỉ là lý thuyết, khi gặp việc thì chúng ta không đủ bình tình phán xét đúng việc, thiện hay ác. Tới khi đã lỡ lầm hoặc làm ác rồi có sấm hối chi nữa cũng muộng rồi.


Nên cần phải trắc nghiệm ý mình có tu sửa được không. Sau đó là thực thi trong đời sống hiện nay. Là thực hành theo, học theo giáo pháp trong kinh này vậy.


Nhận xét trong quyết nghi luận bàn như sao!


Giáo lý kinh điển không bao giờ sai, Lời Phật nói không bao giờ lầm, Nhưng con người theo đạo, thực hành đạo không đúng mới bị lầm. Lầm mà không biết mình lầm, vì không phân biệt được giữa sự kiến học và tuệ học!


Chúng ta đây cũng vậy, chỉ là lý luận bàn suông về kiến học, cho nên không bàn sâu vào những gì chúng ta không thấy, không biết. Khi hiểu là mình sai thì có sấm hối cũng là sự muộn màng.


Kiến thức của người là do người tự học mà thành. Nên có phân biệt cao thấp.


Còn tuệ học lo do sự chứng ngộ từ nơi thiền định. (Trong tướng vô ngã mà có). Không phân biệt theo sách vở, chữ nghĩa mà người đời diển tả.


Quyết nghi:


Giữa người chấp kinh và người tin tấn kinh điển!


Người chấp kinh và người tin tấn kinh điển cã hai đều muốn đời thêm tốt đẹp cùng một ý nghĩa với nhau. Nhưng việc thực hành thì khác nhau, như là mở, úp bàn tay vậy. Nên sự chấp và tin tấn cũng khó phân biệt là…


Chúng ta cùng là con Phật, cùng nhau biết giới thứ tư trong ngủ giới. Là không được nói dối, hoặc kêu người khác nói dối để lợi mình.


Nhưng người chấp kinh thì cũng gần giống nói dối vậy. (Vì nói sai chánh đề, không khéo dùng phương tiện, Thực hành theo kiến học riêng. Nên thành nói dối mà không biết mình dối. Cũng là một tội lớn sai lầm giống như là phỉ báng giáo lý Phật. Hay nói cách khác cũng giống như người cầm viết thì tội nặng hơn người cầm súng là vậy.)


Còn người tin tấn kinh điển, Là chỉ mượn giáo lý kinh điển để áp dụng vào đời sống cho mình, cho người kế bên mình và cho đời thì mới thật sự là tu tâm, sửa tánh. Sự thực hành theo giáo lý tương tự như mượn thuyền qua sông. Rồi phải đi tiếp. Đi tiếp từ một người hiền lương, hiền nhân, cho tới thành thánh nhân, bậc la hán, hay tận cùng là quả vị Phật.


Sự sai biệt giữa người chấp và tin tấn kinh điển!
1. Chấp kinh. 2. Bảo thủ kinh. 3. Sùng kính hay mê tính. 4. Làm mất lòng tin.


1. Chấp kinh. Chấp đây còn gọi là si. Như người đời sống theo thú vui vật chất. Khi là người kinh danh, thì nói chuyện kinh danh. Người có danh quyền thì nói chuyện danh quyền.v.v. Khi ta nói chuyện gia đình. Thì người cho là không hợp!


Còn người chấp kinh cũng vậy. Tôi theo Tịnh độ, học kinh Tịnh độ. Ai nói kinh Thiền hay mật cũng không hợp.
Lại nửa từ chấp kinh, rồi tới chấp soạn giả & người dịch kinh, nơi xuất xứ. Hoặc chấp luôn cã từ ngữ.v.v.


Mê mờ càn thêm mê mờ. Nặng thêm nửa, xem kinh xong rồi, tưởng đâu là mình đã chứng ngộ. Thành Thánh, Thần. Gặp ai hỏi tới kinh mình, thể như trúng tửu, thì nói như két. Sự thật chỉ biết học thuộc lòng, hoặc sao chép lại rồi đem ra dạy người khác. Chính là người nhép theo từ ngữ kinh, túi đựng kinh không hơn, không kém.


Người tin tấn kinh điển chỉ khác một ly về trình độ kiến học. Thí dụ: Tôi theo Tịnh độ. Chấp cõi Tây Phương là có thật, chấp lục tự là bất biết không thể thay thế bằng tên Phật khác. Chấp Tín, Hạnh, Nguyện không bao giờ sai. Nhưng họ không thụ động bao nhiêu đó là tu được rồi. Họ truy tìm các nguồn gốc từ nơi Tín, Hạnh, Nguyện. Thế nào là tiêu cực, hay tích cực. Sau đó quay trở vào nhơn ngã tự tâm mà thực hành. Chính là lời Phật dạy. “Biết ta, không hiểu ta, là phỉ báng ta”.


2. Bảo thủ. Trong Phật học. Gọi là Si mê, hay Si. Thí dụ người có tâm chấp ngã do lòng tham, sân không hiểu rõ chánh tà, không đủ kiến học. Giống như lửa rơm. Nếu gặp được minh sư, hay có căn lành tự học được nơi kinh kệ mà tự minh tâm, kiến tánh tự sửa lại thân tâm.


Còn người đã có tâm si, giống như bệnh nội khoa, hết thuốc chửa (Vô minh thức) Tức là họ đã nghĩ. Ý họ đúng, các hành động họ làm hoàn toàn đúng. Nên dù có Tổ hiện xuống dạy, họ cũng không nghe. Ví như lửa than.


Thí dụ: Họ nghĩ pháp môn Thiền đang học là tối cao, kinh họ học là tối thượng. Nhưng căn cơ (trí thông minh) không có. Mà cố chấp theo học, 10 năm, 20,30 hoặc hết cuộc đời. Nặng thêm nửa, người việt không học kinh dịch chữ việt, mà theo kinh với từ ngữ nho, nôm, hán tự, Pali.v.v. Nên có thành công, thì cũng mất hết thời gian.


Nhưng người tin tấn cũng có tâm si tương tự là. Cho dầu là kinh tối thượng họ cũng không học, vì họ tự biết không đủ trình độ. Chẳng thà học kinh chữ việt, chẳng thà lựa kinh dể mà có lợi ít cho trình độ tu sửa thân tâm.


Cho nên biết mình có tâm này hay không, cần phải xem lại sách, chuyện, kinh Thiền Tông nói về phá chấp, và duy thức học để biết nguồn gốc do đâu mà bảo thủ.


2.1 Sự bảo thủ tôi. Tôi rất thích Thiền Tông, nhưng không thể vì không đủ kiên nhẫn ngồi Thiền, không có thời gian vì cuộc sống nên không học.


Hiện tôi theo Tịnh độ, chuyên về Niệm Phật. Nhưng không thể nào học vô được kinh A Di Đà và các kinh khác tuy rằng rất thích, nhưng không có hợp duyên nên không học. Hàng ngày có thời gian thì. Lạy Phật, Niệm Phật mong thời gian huân tập sẽ từ từ thành thói quen Niệm Phật, sau là Lạy Phật cho bớt đi tâm ngã mạn. Nên có lý do tại sao mà bảo thủ. Không theo lời của các thầy dạy bảo.


Theo bắc tông Phật giáo, lại học kinh Nam Tông Phật giáo tại sao! - Giống như vừa nói ở phần trên. Và tôi cũng không lựa thầy dịch có tiếng tăm. Trong khi mình không học được. Nên nay đã chọn kinh dịch thuật của cư sĩ Thiện Nhựt. Nói đúng hơn là học lấy giáo lý xã hội thời Ngài còn là Thánh Nhân ở cỏi Ta-bà. Để áp dụng vào xã hội, cuộc sống của tôi ở ngày nay.


Cái bảo thủ sau cùng là tự biết mình không có trình độ kiến thức văn hóa mà vẩn làm, vẩn viết. Giống như múa rều qua mắt thợ. Ngốc mà đòi học khôn.


Lý do là hiện tôi chưa gặp được minh sư chỉ dạy! Nên mới ngốc.
Vả lại muốn đem cái hiểu của mình muốn làm sáng tỏ cái sai lầm học đạo của người đời (thường) mới.
Nên đã cố gắng dùng tâm suy nghĩ ra mà viết. Biết ngu mà vẩn làm.


3. Sùng kính hay mê tính: Sùng kính Kinh là người biết các kinh điều có sự lợi ít riêng của kinh. Nên biết mà sùng kính.


Mê tính kinh là người không biết các kinh điều có sự lợi ít riêng của kinh hoặc muốn học nhưng lại không hiểu. Mà vẩn thỉng về đầy nhà để thờ cúng. Có khi còn các ngôn ngữ khác không thể nào đọc được, học được. Thành mê tính vì không biết giá trị của kinh. Giống như nhà có vật quí mà không biết tận dụng vậy.


Nói một cách khác, người sùng kính là biết được nội dung của kinh hợp với mình và theo đó tu tập, chớ không phải tên kinh, người dịch, nơi chốn.


Cái biết của người trí là tâm kinh, cái biết của người mê tính kinh là chữ, tiêu đề, xuất xứ và người dịch kinh.


4. Làm mất lòng tin! -Thí dụ: Về tiểu sử và nguồn gốc kinh, Viết không ràng rẽ, có khi còn sai, nơi thời gian, nơi phát nguồn. (Hoặc nhiều người phiên dịch cùng một kinh tất nhiên có chổ sai biệt. Hoặc không có sự thống nhất kinh nào từ lớp A tới Z hay từ dể tới khó.v.v.)


4.1 Phật giáo chỉ là một, Nhưng đã chia ra nhiều tông phái!


Kinh Pháp cũng vậy. Kinh Bắc Tông không biết kinh Nam Tông, Kinh bên Tịnh độ khác hơn, Kinh bên Thiền Tông khác, Kinh bên Mật độ tông.v.v.


Làm lòng người cũng có sự khác biệt, rồi từ sự khác biệt sanh ra chấp ngã. Từ sự chấp ngã sanh ra mất lòng tin với nhau. Thử hỏi người đời làm sao biết nơi nào là gốc, chốn nào là ngọn.


Tóm lại lòng tin không phải là mê tín. Phải chứng minh bằng thực thể có thật, minh chứng, đem lại sự lợi ít cho đường tu, cho mình, và cho mọi người nói riêng. http://sites.google.com/site/layphat/kinh-phap-cu-1

Và đây là diễn đàn riêng của bạn: http://thiennhan.freeforums.org/
 http://phapcu.wordpress.com/


Văn,Tư,Tu Tự ngã luận

I - Mở đề:

Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn (84000) tu học Phật, có nhiều phương pháp học Phật sinh động. Chủ thể chỉ là một. Một là đoạn trừ đau khổ. Tiến tới chơn ngã Pháp hữu vi niết bàn. Nhưng Văn,Tư,Tu là phương tiện tu trì, khai mở trí huệ học giúp cho hành giả học và hành trì theo lời Phật dạy nhằm đến mục đích an lạc trong hiện tại và tiến đến qủa vị Niết bàn.

VĂN : Tập trung các dử kiện nghe, thấy, trình bày, ghi nhận, trong kinh điển và các luật, luận từ các thầy tổ ghi chép lại sau ngài nhập niết bàn.

: Ðưa ra những nhận định thuyết yếu, suy luận lại Nghĩa, Pháp, Từ, Thuyết. Và đem giáo lý này, hòa hợp vào cuộc sống hiện tại. (Là Pháp thế gian).

TU: Sau khi học một quyển kinh cần nên lựa trọn cho hợp với trình độ thu nhận, Và quán xét kỷ. Sau đó mới lập chương trình, phương án thực hiện. Tu hành và Thiền định.

Tự ngã: Tự ta, tâm ta, ý ta.

Luận: Bàn, quán, xét, Nhận định nhơn quả, chánh tà.

II- Nhập đề:

Các giáo lý trong kinh điển là Pháp Hữu vi, Vô Vi, Chơn ngã pháp. Học một quyển kinh Phật là học tất cã. Nếu người hiểu thì chỉ học một Pháp là đủ, Còn người chưa hiểu thì có học ngàn quyển kinh, trăm ngàn Pháp cũng chưa đủ. Phật Pháp thâm sâu, nhiệm mầu, bất vi, bất biến, không thể luận bàn. Và đây là lời nhận xét của Sư cô Thích Nữ Tuệ Nhi. http://sites.google.com/site/layphat/thien-tri-thuc

Tự ngã luận: Sự hiểu biết của Hành giả, quán lại thân tâm và tu sửa.
Người học Pháp phải hiểu rằng giáo lý của Ngài như một con đường, như ngón tay chỉ mặt trăng, như chiếc xuồng để qua sông đến bờ giác chứ không phải một chủ thuyết triết học để lý luận tranh biện khoe khoang, biện tài cao thấp.

Điểm quan yếu của học Phật là hành trì, là lên xuồng để sang sông chứ không phải nói chuyện sang sông.

Pháp ví như kim chỉ nam, còn thuyền thì do người lái. Là như vậy.

Một ví dụ để chúng ta sáng tỏ hơn về Văn -Tư-Tu, Phật nói '' Tất cả thế gian đều vô thường'' Chúng ta đem ứng dụng vào đời sống của mình.

Ðã biết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh không lo sợ, không hốt hoảng, sự sợ hãi làm rối ren vô ích, nhờ không sợ hãi nên ta giải quyết vấn đề một cách tốt đẹp, biết vô thường nên chúng ta luôn sống an trú trong hiện tại.

Không hứa hẹn rằng ngày mai mình sẽ tu học chuyên cần, ngày mai tôi sẽ bố thí, sẽ trì giới nhưng một khi vô thường đến thì đã muộn rồi '' Chớ đợi tuổi già mới học đạo, mồ hoang lắm kẻ tuổi còn xanh '' học ở đây cũng có nghĩa là hành. Hiểu được Vô Thường chúng ta sẽ biết quý trọng thời gian, một ngày trôi qua không tìm lại được, phải cấp bách tu hành để lợi mình, lợi người, những lợi ích theo đó tăng trưởng, sự tu hành đó đi đôi với tâm trí tĩnh táo sáng suốt nên gọi là Tu Huệ của pháp thế gian.

III. Chánh đề:

02.Văn Tư Tu Tự Ngã Luận. - Tự học, Tự xét, Tự sữa chữa lại mình. Về Y Báo là Kinh kệ Pháp Cú. Về Chánh Báo hãy tự mình kiểm soát tâm mình sao cho đúng là người đệ tử Phật gia. Chú thích lại những bài kệ làm kim chỉ nam cho mình v.v. http://sites.google.com/site/layphat/van-tu-tu-tu-nga-luan

Website http://sites.google.com/site/layphat/Home gồm có 7 phần. Phần I, II, III Là Tu sửa thân tâm. Phần IV, V, VI, VII. Là phương tiện tìm hiểu thêm về kiến thức.

Phần I. Huân tập: 1.Tam Bảo đảnh lễ, trì tụng, 2.Niệm Phật, 3.Lạy Phật, 4.Kinh Hành, 5.Dưỡng Sinh.

Chủ đề: Thân;
Phụ đề: Miệng; Ý.

Phần II. Học Pháp Cú kinh, Luyện tập thiền quán vô minh, quang minh và trí thanh tịnh.

Chủ đề: Ý
Phụ đề: Thân, Miệng.

Phần III. Chơn ngã Pháp Cú thập tiểu kệ luận. Phần.I. Trắc nghiệm thân tâm và Phần II. Thực thi thân tâm.

Chủ đề: Khẩu (miệng).
Phụ đề: Thân;Ý.

IV. Kết luận:

Website này chủ đề về Tịnh độ. Niệm Lục Tự Hồng Danh. Cho hàng Phật tử tu tại gia trong giai đoạn đầu, không có nhiều thời gian, và hành giả trong 32 già nạn không thể xuất gia.

Tự rèn luyện thân tâm. Phần I, http://sites.google.com/site/layphat/Home

Mở mang kiến thức Phần II, http://sites.google.com/site/layphat/kinh-phap-cu-1

Thực thi kiến thức. Phần III. http://sites.google.com/site/layphat/chon-nga-thap-tieu-luan-iii  

Trong thời huân tu sẽ giúp cho hành giả. Nhiếp phục Thân tâm.
Có trách nhiệm và bổn phận. là phương tiện giúp hành giả lập thành một thói quen. Chính là Phần I trong website này.

Thực hành đi đứng nằm ngồi, Luôn luôn Niệm Hồng Danh. Rất đúng, nhưng mấy ai làm được! Ngoài thời huân tu thân tâm thanh tịnh. Cần phải trao dồi kiến thức trong kinh điển. Chính là Phần II trong website này.

Thân tâm nhiếp phục trong thời huân tu, kiến thức học tập trong Pháp Cú kinh, cũng chưa đủ, vì hàng ngày, cuộc sống chung đụng. Ta không trắc nghiệm và Thực thi thân tâm thì khi gặp việc. Chúng ta có thể quên đi. Chính là Phần III trong website này.

Hành giả chớ vội tin vì nhẹ dạ, Hoặc dùng kiến văn phân biệt, luận bàn.
Thực hành suy nghiệm tinh tường. Lợi lớn cho mình chẳng tệ chi đâu.

http://sites.google.com/site/layphat/
http://chonnga.blogspot.com/
http://tracnghiemthantam.blogspot.com/

Diễn đàn: http://thiennhan.freeforums.org/
http://phapcu.wordpress.com/


Nhơn Quả Pháp Cú luận

I. Mở Ðề



Vũ trụ, vạn vật không phải tuần hành, biến dịch một cách tự nhiên, vô lý, mà tuân theo một cái luật chung. luật đó là luật Nhân quả. Luật này không phải do một đấng nào, xẫ hội nào đặt ra, mà là một luật thiên nhiên âm thầm, lặng lẽ, nhưng đúng đắng vô cùng.


Người đời vì không quan sát một cách kỹ càng, tường tận nên không thấy được luật ấy. Do đó, họ đã hành động một cách bừa bãi, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với bản thân mình và với người chung quanh. Và cũng chính vì thế mà họ đau khổ, lặn hụp mãi trong biển mê mờ, tội lỗi.


Trái lại, Ðức Phật là vị hoàn toàn giác ngộ, đã thấy ra cái luật nhân quả đang chi phối, điều hành mọi sự vật trong vũ trụ nầy, nên Ngài đã hành động một cách sáng suốt, lời lạc cho chính mình và chúng sanh.


Vậy chúng ta là Phật tử, chúng ta cần phải hiểu biết cái luật nhân quả mà đấng từ phụ đó phát huy nó như thế nào, để rồi hành động đúng theo như lời Ngài đã làm, hầu đem lại hạnh phúc chân thật, lâu bền cho mình và cho người chung quanh.


II. Chánh Ðề


Ðịnh Nghĩa: "Nhân" là nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả; nếu không có Quả thì không có Nhân.


1. Những Ðặc Tính Của Luật Nhân Quả


1.1 Nhân thế nào thì quả thế ấy:


Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ươm hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trồng cam mà lại được đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Người học đàn thì biết đàn, người học chữ thì biết chữ. nói một cách khác, nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi.


1.2. Một nhân không thể sanh ra quả:


Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào, có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng đất nước, nhân công.


Cho nên, khi ta nghe bất cứ ai tuyên bố rằng: “mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sanh ra vạn vật”; ta có thể chắc chắn rằng, người ấy nói sai sự thật.


1.3. Trong nhân có quả, trong quả có nhân:


Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta mong muốn, chờ đợi. Một sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra trạng thái mà ta mong đợi ước muốn. Mỗi vật, vì thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền.


1.4. Sự phát triển nhanh và chậm từ nhân đến quả:


Sự biến chuyển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất:


Có những nhân và xảy ra kế tiếp nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện, như khi vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền phát hiện ra (quả); hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, thì ánh sáng liền bừng lên.


Có khi nhân đã gây rồi, nhưng quả đợi một thời gian, quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng.


Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.


Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất hiện. Chẳng hạn như từ ý niệm giành độc lập của một quốc gia, đến khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải qua bao thế kỷ.


Vì lý do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên nóng nẩy hấp tấp, mà cho rằng cái luật nhơn quả không hoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.


2. Phân Tích Hành Tướng Của Nhân Quả Trong Thực Tế


Như các đoạn trên đã nói, nhân quả chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, sự gì, động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thóat ra ngoài luật nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rõ ràng hơn về luật nhân quả, chúng ta hãy tưần tự phân tích hành tướng của nhân quả trong mọi sự vật:


2.1. Nhân quả có trong những vật vô tri vô giác:


Nước bị lửa đốt thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu ngày thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.


2.2. Nhân quả trong loài thực vật:


Hạt cam thì sanh ra cây cam, cây cam thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh ra cây ớt, cây ớt thì sanh ra trái ớt. Nói một cách tổng quát, giống ngọt thì sanh trái ngọt, giống chua thì sanh trái chua, giống nào thì sanh quả ấy.


2.3. Nhân quả trong các loài động vật:


Loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng là quả. Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân sanh con là quả.


2.4. Nhân quả nơi con người:


Về phương diện thể chất: Thân tứ đại là do bẩm thụ huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ tiếp nối như thế mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.


3.Về phương diện tinh thần:


Những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu, một nếp sống trong hiện tại: tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả.


Ðể nhận rõ cái phần tinh thần quan trọng nầy, chúng ta hãy dành riêng ra một mục, để đặt biệt chú ý đến hành tướng của nó dưới đây.


3.1. Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt:


Tham: Thấy tiền của người, nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ là quả.


Sân: Người quá nóng giận, đánh dập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân; khi hết giận đau đớn, nhìn thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả.


Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngõ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là nhân; làm cho gia đình lủn củn, thân thể suy nhược, trí huệ u ám là quả.


Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc nầy việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì cũng không theo, đó là nhân; kết cuộc không làm nên được việc gì cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng đó là quả.


Kiêu mạn: Tự cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp lên nhân phẩm người chung quanh, là nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả. Nghiện rượu trà: chung quanh tiền bạc ăn nhậu cho ngỏa nguê là nhơn; đến lúc say sưa chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngả nhiều khi gây ra chém giết nhau làm những điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.


Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm, suốt tháng theo con bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau, thâm quỹ, thụt két, là quả.


3.2. Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt:


Như trên chúng ta đã thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạng, vinh quanh và an vui như thế ấy.


Người không có tánh tham bỏn sẻn, thì tất không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi.


Người không nóng giận, tất được sống cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm;


Người không si mê theo sắc dục, thì tất được gia đình kính nể, trí huệ sáng suốt, thân thể tráng kiện;


người không hay ngờ vực, có đức tin, thì hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu trong đời;


người không ngạo mạn thì được bạn bè quí chuộng, niềm nở đón tiếp, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp tai biến.


Người không rượu chè, cờ bạc thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quen biết kính nể.


Những điều nầy, tưởng không cần phải nói nhiều, quí đọc giả cũng chán biết. Hàng ngày quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và quả ấy, diễn ta không ngớt, chỉ cần giở tờ báo hàng ngày, đọc các mục tin tức là thấy ngay.


Nói một cách tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như về vật chất, người ta gieo thứ gì, thì gặp thứ ấy.


4. Lợi ích đem lại cho chúng ta, do sự hiểu biết và áp dụng luật Nhân Quả.


4.1. Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền:


Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì mơ hồ, bí hiểm. Nó vén tất cả những cái gì đen tối, phĩnh phờ của mê tín dị đoan, đang bao trùm sự vật. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương “Vạn vật do một vị thần sinh ra, và uy quyền thưởng phạt muôn loài”. Do đó, người hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.


4.2. Luật nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chính con người:


Khi đã biết cuộc đời của mình do nghiệp nhân của mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở ai nữa? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng qúy báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt. Vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quý báu, đem lại những kết quả đẹp đẽ.


4.3. Luật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc:


Người hay chán nản, hay trách móc là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi sự thất bại hay thành công, thì còn chán nản trách móc ai nữa? Ðã biết mình là quan trọng như thế, là chỉ còn lo tự sửa mình, không gieo nhân xấu, để khỏi phải gặt quả xấu, tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác.


III. Kết Luận:


Chúng ta đã biết giá trị của luật nhân quả, vậy chúng ta nên đem bài học nầy ra áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ, nhục nhã trong tương lai. Nếu chúng ta làm được như thế, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ địa vị người, chúng ta có thể tiến dần lên đến quả vị thánh hiền, siêu nhân.
Coppy. Phật Học Phổ Thông. Khóa I. Bài 5.


Trong Phật Học Phổ Thông, Thầy đã trình bài rõ ràng đầy đủ các nguyên lý nhân và quả, thuyết tưởng chúng ta không cần thêm bớt.


1.Nhưng thực hành bắc đầu từ nơi đâu! - Kể từ khi chúng ta đã hiểu nhân quả.


2. Ta không thể chờ đợi tới chuyện rồi mới thực hành! – thì sẽ lúng túng, hoặc lở sai phạm thì có hối cũng không kịp.


3. Hay học xong rồi đem áp dụng vào kiến thức, biện luận! - Chỉ là lý thuyết.


Thực hành, lý thuyết phải đi đôi, thì mới đạt hiệu quả trong sự học Pháp. Vì vậy những bài Pháp Cú kệ là điểm tựa học hỏi kết quả nhất.


Nhiều dịch giả đã dùng chữ Nhân Quả có khi lại dùng Nhơn Quả tại sao! – Xin thưa Nhân hay Nhơn cùng một nghĩa. Trong hán, nho.


Quyết Nghi Nhân Quả.


1. Có người nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng, sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở; trái lại, những người hung ác, sao lại vẫn được an bình ?


Ðáp: Những đoạn trên đã nói, thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân từ đời nay, đến đời sau mới hình thành quả v.v...


Vậy nếu có người trong đời hiện tại làm việc hung ác, mà được an lành, là do kiếp trước họ tạo nhơn hiền từ. Còn cái nhơn hung ác, mới tạo trong đời nay, thì tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo. Cũng như có người năm nay ăn chơi, không làm gì hết, mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. Còn cái nhân ăn chơi không làm năm nay, thì sang năm họ sẽ chịu quả đói rách.


Còn người đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở, là do đời trước, họ tạo những nhơn không tốt. Cái nhơn hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui. Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt, là vì nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm sau họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, Cổ nhân có nói: Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, Chỉ danh lai tảo dữ lai trì


(Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi)


2. Có người hỏi: Theo luật nhân quả thì ai làm nấy chịu: cha làm tội, con không thể thay thế được; con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao thấy có những việc: cha làm con phải chịu liên can, hay ngược lại con làm cha phải chịu ảnh hưởng?


Trả lời: Trong kinh Phật dạy: Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp.


Biệt nghiệp là nghiệp báo riêng của mỗi chúng sanh, như mình có học nhiều thì mình biết nhiều, mình ăn thì mình no, mình siêng năng thì mình dễ thành công, mình nhác lười thì mình thất bại.


Cộng nghịêp là nghiệp chung cho nhiều chúng sinh; cùng sống trong một hoàn cảnh. Như người Việt Nam, sống trên mảnh đất chữ S nầy trong giai đoạn chiến tranh Việt Pháp vừa qua, thì dù giàu, dù nghèo, dù trí thức, dù bình dân, đều chịu ảnh hưởng chung của chiến tranh; như sanh ở một nước tiên tiến, thì mọi người đều tương đối được hưởng một đời sống vật chất đầy đủ hơn ở một nước bán khai. Ðã sanh chung một gia đình, một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau. Sách có câu: Nhất nhơn tác phước, thiên nhơn hưởng. Ðộc thọ khai hoa, vạn thọ hương.


(Một người làm phước, ngàn người đều được ảnh hưởng; một cây trổ hoa, muôn cây chung quanh đều được thơm lây).

http://sites.google.com/site/layphat/  

http://chonnga.blogspot.com/
http://tracnghiemthantam.blogspot.com/

Diễn đàn: http://thiennhan.freeforums.org/
http://phapcu.wordpress.com/




Văn, Thơ, Kệ

Văn Thơ Pháp kệ (Bài làm số 12)

I. Mở đề:


Người thợ chuyên nghiệp là nhờ nhiều năm kinh nghiệm, Nghệ nhân thành công do vào bàn tay khéo léo. Ngưòi Họa sĩ vẽ được bức tranh có thần hồn, là do cãm nghĩ của người biết thưởng thức và cã người họa sĩ đồng tâm.

Thì những tác phẩm văn hay, giỏi chữ chính là kiến thức văn hóa. Mà người sáng tạo ra nó, không phải chỉ cho họ, hoặc người có đủ kiến thức!- Thưa, là cho tất cả mọi người dù là người dốt chữ, khi nghe, họ cũng hiểu được nội dung của người viết, mới gọi là người Văn sĩ, Danh sĩ, nhà văn.v.v.

Do vậy, tác phẩm kiến thức văn hóa hay hoặc dở là do các đọc giả bình luận.

II. Chánh đề:

Văn vần, thơ thuận, thi kệ là bài ngắn, gọn, tóm tắc, đủ nội dung, của một bài văn hay luận, hoặc lời giải trình.v.v.

Một văn sĩ tài ba viết được các văn hóa xã hội, nhưng không viết được văn hóa Phật-giáo. Và Ngược lại người viết Văn hóa Phật-giáo được thì cũng viết được văn hóa xã hội “Vì đạo đời tuy hai là một”. Và nắm vững kiến thức chưa đủ, mà cần phải có tuệ thức. Hoặc là người ngộ thức của bậc chứng đắc Thiền-định. Vì thế viết…

Văn hóa Phật-giáo lại càng khó hơn. Và có khi không thể dùng giấy mực mà diễn tả ra được ý nghĩa, nội dung trong kinh-điển. Hay gọi là “Vô tự chân kinh” Nghe nói thì có, nhưng ai thấy kinh này! Chính là vậy…

Dịch kinh viết Pháp nhiều Phước thì có, Ngộ thì chưa chắc… là vì…Dịch kinh viết Pháp vì Tham Danh, cầu Lợi. (Chứng tỏ mình có nhiều kiến thức, hay kinh danh kinh điển thì sớm muộn vì đọc giả cũng biết. Nhẹ người đời tránh né, hoặc trể nải đường tu, nặng thì tự đọa địa ngục vì tham danh, cầu lợi).

Học giả có thể phân biệt được “Dư soạn giả”, “Khế Lý” “Khế Cơ”:

Người Viết Pháp, Dịch kinh “” Là quá nhiều người viết cùng một tác phẩm.

Người Viết Pháp, Dịch kinh “Không hợp Khế Lý”. Là viết sai Nội Dung, viết thiếu lời giải, bỏ xót, dài vòng, hay viết thiên vị về Tông phái, hoặc người học sẽ hiểu lầm.

Người Viết Pháp, Dịch kinh “Không hợp Khế Cơ”. Là văn hóa không hợp với thời đại, Hoặc ngôn ngữ khó đọc, khó thuộc, hay khó hiểu.

Học giả có thể phân biệt được thêm về “Chánh Báo” và “Y Báo”.

Người Viết Pháp, Dịch kinh “Hợp về Lý, Cơ” Y báo có Chánh báo không.

(Thí dụ: Như người có nhiều tiền của, đệ tử, bạn bè đông, nhà cao cửa rộng. Nhưng không có tuệ giác.

“Thì kinh điển đó chỉ hợp trong một thời gian rồi cũng sẽ hoại diệt. Giống như mình không có phước đức thì làm sao cho phước đức được người vậy”).

Người Viết Pháp, Dịch kinh “Hợp về Lý, Cơ” Chánh báo có, Y Báo không.

(Thí dụ: Chánh báo có là: Kiến thức có, tuệ thức có, Lý và Cơ có, Nhưng không có y báo. Những hàng người này thì có cả trong đủ mọi thành phần trong xã hội, và trong cã người xuất gia.

Tuy rằng họ chưa giác-ngộ như những vị Tổ, hoặc bậc Thầy đã biết qua. Nhưng họ có ích nhiều đem lại lợi ích cho chúng ta và xã hội nói riêng).

Có nghĩa là họ đã chứng ngộ được từ phần, từ phần pháp giới, Biết Từ, Bi, Hỉ , Xã.v.v. Biết Tự giác, giác tha. (là Hạnh Bồ tát).

Và những Bậc Viết Pháp, Dịch kinh đã chứng ngộ:

Người có Chánh Báo, Y Báo và hợp cã hai về Lý, Cơ Thì nhiều lắm, xem lại tiểu sử Phật-giáo Trung-Hoa, Và Phật-giáo Thiền Tông Việt Nam (Như Vua Trần Thái Tông “1240-1290” bên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chính là Tuệ Trung Thượng Sĩ). http://diendan.daitangkinhvietnam.org/viewtopic.php?f=35&t=3052

 III. Kết Luận:

1. Học Giả:

1.1. Học giáo lý nên từ từ, từ dể tới khó, (Dể đọc, dể hiểu, dể nhớ và dể áp dụng/thực dụng vào đạo đời).

1.2. Học giáo lý của những Bậc Viết Pháp, Dịch kinh đã Chứng ngộ.

1.3. Học giáo lý và tìm hiểu thêm về giáo lý cho hợp thời thế:

Chớ chấp vào từ ngữ, dịch giả, Danh giả, nơi chốn (Nước ngoài, hay nội địa).

1.4. Xem và xét Khế lý và Khế cơ của soạn giả.

1.5. Phân biệt Chánh Báo, Y Báo.

2. Soạn Giả:

Cần nên tránh những lỗi lầm chỉ vì “Vô tình” mà phải mang tội mua Thần bán Thánh. “Do vậy giữa ác và thiện khó phân biệt khi ta chưa ngộ về tuệ giác thi không nên Viết Pháp, Dịch kinh”. Vậy

Nếu vì thích thú tự giác, giác tha mà Viết Pháp, Dịch kinh nên soạn lại những kinh cổ, ngôn ngữ học khó hiểu làm lại. Hoặc sắp xếp lại kinh nào dể tới khó học hay theo thứ tự. Thì công đức thật vô lượng.
http://sites.google.com/site/layphat/van-tho-phap-cu-ke

Diễn đàn: http://thiennhan.freeforums.org/
http://phapcu.wordpress.com/




Tứ Diệu Đế Pháp Cú luận

I. Mở đề:


Hể là người đã quy y Tam-bảo, thọ trì ngũ giới, hầu như điều biết luận Nhân Quả, thiện ác, phân minh.

Làm ác tất nhiên bị tù tội, nếu lẩn trốn được luật pháp thì cũng khó thoát được nghiệp quả sau này.

Người đệ tử Phật biết làm lành, tránh dữ. Thì mới gọi là người đệ tử chân chánh của Phật-giáo.

Làm lành, tránh dữ chỉ nghe theo cũng chưa đủ, mà cần phải biết phương pháp học và thực hành. Chính là Lý Diệu Đế. Là Pháp vi diệu tối cao đầu tiên Ngài thuyết.

II. Nhập đề:

Ðức Phật Thích Ca, sau khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, Ngài quán sát căn của năm người bạn đồng tu với Ngài trước kia là nhóm ông Kiều Trần Như, có thể khai ngộ được với pháp Tứ Diệu Ðế, đức Phật đi đến Lộc Uyển là nơi họ đang tu hành để nói pháp Tứ Diệu Ðế.

Sau khi nghe Phật thuyết pháp Tứ Diệu Ðế, thánh kiến mê lầm tan vỡ, trí huệ siêu thoát xuất hiện, năm vị này được ngộ đạo, chứng nhập qủa vị A La Hán. Ðó là năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật Thích Ca.

Từ đây về sau, Tứ Diệu Ðế là giáo lý căn bản về Tiệm giáo (phương pháp tu chứng từ từ) và đã giác phộ cho không biết bao nhiêu đệ tử của Phật. PHPT.

1. Ðịnh Nghĩa Về Tứ Diệu Ðế

Tứ là bốn; Diệu là hay đẹp, quý báu, hoàn toàn; Ðế là sự chắc chắn, rõ ràng đúng đắn nhất. Chữ Phạn là Ariya Saccani.

Tứ diệu đế là bốn sự thật chắc chắn, quí báu, hoàn toàn nhất, không có một giáo lý ngoại đạo nào có thể sánh kịp.

Với bốn sự thật mà Ðức Phật đã phát huy đây, người tu hành có thể từ địa vị tối tăm, mê mờ, đi dần đến quả vị giác ngộ một cách chắc thật, không sai chạy, như một ngọn đuốc thiêng có thể soi đường cho người bộ hành đi trong đêm tối đến đích. Vì cái công dụng quí báu, mầu nhiệm, vô cùng lợi ích như thế nên mới gọi là Diệu.

Chữ Ðế còn có nghĩa là một Sự Thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cả các Sự Thật khác, và muôn đời bất di bất dịch, chứ không phải là sự thật hạn cuộc trong không gian và thời gian. PHPT.

2. TỨ Diệu Ðế Gồm Những Gì? - Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế.

Khổ đế ( Dukkha). Khổ đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng cho chúng ta thấy tất cả những nỗi đau trên thế gian này mà mỗi chúng sinh đều phải chịu, như Sống là khổ, Ðau là khổ, Già là khổ, Chết là khổ V.V..những nỗi khổ dẫy đầy trên thế gian, bao vây chúng ta, chìm đắm chúng ta như nước biển. Do đó, Ðức Phật thường ví cõi đời là một bể khổ mênh mông. PHPT.

Khổ đế có ba gốc khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

a) Khổ khổ. Cái khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đã là khổ, mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ"
như: bệnh tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng v.v...Vì thế nên gọi là "khổ khổ".

b) Hoại khổ. Trong Khế kinh chép: "Phàm vật có hình tướng đều phải bị hoại diệt". Thực thế, vạn vật trong vũ trụ đều bị luật vô thường chi phối, không tồn tại mãi được. Thí dụ: về người thì phải chịu Sanh lão bệnh tử.

c) Hành khổ. Về phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá hoại. (Thí dụ: Tiền, tài, danh, vọng, sắc, dục).

Còn về phương diện tinh thần, ta cũng không hề tự chủ, yên ổn, tự do được. Tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vặt, lôi kéo, thúc đẩy từng phút từng giây. Tư tưởng ta cũng luôn luôn biến chuyển nhảy vọt lăng xăng từ chuyện này sang chuyện khác, như con ngựa không cương, như con vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghỉ. (Thí dụ: Vui, buồn, giận, ghét.v.v) Thật là đúng như lời Phật dạy: "tâm viên, ý mã".PHPT.

Khổ đế trong Phật-giáo chia ra làm tám loại khổ chánh là: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.

Chính là Quả ác khổ, do nhân ác của nó là Tập đế.

Tập đế (Sameda Dukkha). Tập đế là chân lý chắc thật, trình bày nguyên nhân của bể khổ trần gian, là lý do vì đâu có những nỗi khổ ấy. Khổ đế như là bản kê khai hiện trạng của chứng bệnh; còn Tập đế như là bản nói rõ nguyên nhân của chứng bệnh, lý do vì sao có bệnh.

Tập đế: Tập là chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên. Ðế là sự thật vững chắc, đúng đắn hơn cả. Tập đế là sự thật đúng đắn, vững chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích trữ lâu đời, lâu kiếp trong mỗi chúng sanh. Ðó là sự thật về cội gốc của sanh tử, luân hồi, của bể khổ trần gian.

Nguyên Nhân Của Ðau Khổ Là Những Gì?

Phật dạy: Cội gốc của sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm là những dục vọng xấu xa, những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm chúng ta.

phiền não rất nhiều, nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn (84.000), nói hẹp lại thì có mười phiền não gốc, gọi là căn bản phiền não. Do mười phiền não gốc nầy mà sanh ra vô số phiền não nhánh ngọn (xin xem quyển Tu Tâm). Mười phép phiền não gốc là:

1. Kiết sử: Mười thứ phiền não gốc: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến cũng gọi là "Thập Kiết sử".

Kiết là trói buộc; Sử là sai khiến. Mười phiền não nầy gọi là Kiết Sử, vì chúng nó có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi và sai sử chúng sinh phải quay lộn trong vòng sanh tử luân hồi, từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao nhiêu điều khổ não. PHPT. Chính là cái Nhân ác phải chịu khổ.

Diệt đế (Nirodha Dukkha). Diệt đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng hoàn cảnh quả vị an lành, tốt đẹp mà chúng sanh sẽ đạt đến khi đã diệt trừ được những nỗi khổ và những nguyên nhân của đau khổ. Diệt đế như là một bản cam đoan của lương y nói rõ sau khi người bệnh lành thì sẽ ăn ngon, ngủ yên như thế nào, thân thể sẽ tráng kiện, tâm hồn khoan khoái như thế nào.

Ðịnh Nghĩa Sao gọi là Diệt đế?

Diệt là tiêu diệt, trừ diệt. Diệt ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ, phiền não. Ðế là lý lẽ chất thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu. Diệt đế, chữ Pali gọi là "Nirodha Dukkha" tức là sự thật đúng đắn, mà đức Phật đã thuyết minh về hoàn cảnh tốt đẹp mà mọi người có thể đạt được khi đã diệt hết mọi phiền não, mê mờ.

Kinh Niết Bàn dạy: "Các phiền não diệt gọi là Niết Bàn, xa lìa các pháp hữu vi cũng gọi là Niết Bàn". Diệt đế tức là Niết Bàn.

Diệt đế tức là chân lý chắc thật nói về quả vị mà một kẻ tu hành có thể chứng được. Quả vị ấy tức là Niết Bàn.

Nhưng vì sự tu hành có thấp có cao, có rộng có hẹp, nên quả chứng tức là Niết Bàn cũng có thấp có cao, có hoàn toàn, có chưa hoàn toàn.

Muốn thấy được Niết Bàn thật, phải tự mình thân chứng, phải thể nhập Niết Bàn. Muốn thân chứng, thể nhập Niết Bàn, cần phải tu theo phương pháp mà đức Phật đã dạy trong phần Ðạo đế. Quả Thiện.

Ðạo đế (Nirodha Gamadukkha). Ðạo đế là những phương pháp đúng đắn, chắc thật để diệt trước đau khổ. Ðó là chân lý chỉ rõ con đường quyết định đi đến cảnh giới Niết Bàn. Nói một cách giản dị, đó là những phương pháp tu hành để diệt khổ và được vui. Nhân thiện.

Ðạo đế có 37 phẩm, chia ra làm 7 loại:

1 Bốn món Niệm xứ (Tứ Niệm Xứ)

Quán Thân bất tịnh, Quán Tâm vô thường, Quán Pháp vô ngã , Quán thọ thị khổ.

2 Bốn món Chánh cần (Tứ Chánh cần)

a.Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh.
b.Tinh tấn dứt trừ những điều ác phát sinh.
c.Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.
d.Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.

3 Bốn món Như ý túc (Tứ Như ý túc)

a.Dục Như ý túc,
b.Tinh tấn Như ý túc,
c.Nhất tâm Tứ Như ý túc,
d.Quán Như ý túc.

4 Năm Căn (Ngũ Căn)

Năm căn ấy là: Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ căn.

5 Năm Lực (Ngũ Lực)

Bất luận người nào, hễ đã lấy trí làm nền tảng, tinh tấn thật hành chánh pháp (tấn), hằng ghi nhớ chánh pháp để tiến tu (niệm), tập trung tư tưởng để trừ sạch vô minh phiền não, đem diệu huệ vô phân biệt (huệ) để chứng chân như, thì người ấy thế nào cũng nắm chắc trong tay quả vị vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì người ấy đã có những thần lực vĩ đại (Ngũ lực) do Ngũ căn gây tạo. Với ngũ lực nầy, hành giả như người bộ hành có đủ phương tiện, diệu dụng để băng rừng, vượt biển và đi đến đích cuối cùng. Ðích cuối cùng của người tu hành theo chánh pháp tức là thành Phật.

6. Bảy phần Bồ đề (Thất Bồ đề phần)

Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Niệm, Ðịnh, Xả

7. Tám phần Chánh đạo (Bát Chánh đạo phần).

a. Chánh kiến, b. Chánh tư duy, c. Chánh ngữ, d. Chánh nghiệp,
e. Chánh mạng, f. Chánh tinh tấn, g. Chánh niệm, h. Chánh định.

III. Chánh đề:

Phật Tử Phải Học và Thực Hành Pháp Tứ Diệu Ðế.

Một giáo lý căn bản, quan trọng như Tứ Diệu Ðế, người Phật tử không thể không hiểu được. Không hiểu biết về Tứ Diệu Ðế là không hiểu biết gì về giáo lý đạo Phật cả.

Thấy rõ được mọi nỗi khổ đau rồi, ta cần tìm hiểu vì đâu có khổ, nguyên nhân của khổ là đâu. Vì chỉ khi nhận thấy được nguồn gốc của nó, mới có thể diệt trừ tận gốc nó được.

Ðiều này, cũng không chỗ nào nói rõ ràng, phân tích ràng mạch bằng Tập đế. Nhưng thấy được mọi nỗi đau khổ của cõi đời và nguồn gốc của nó, không phải để mà chán ngán, khóc lóc, rên siết. Nếu thế thì không có gì tiêu cực bi quan bằng. Một số dư luận tưởng lầm đạo Phật là yểm thế bi quan là vì họ đã dừng lại ở hai phần đầu của Tứ Diệu Ðế. PHPT.

Vì vậy Tứ Diệu Đế pháp không phải chỉ cho hàng xuất gia biết, mà hàng tu sĩ tại gia cũng cần biết, dù bất luận hành giả theo tiểu thừa, đại thừa, Nam-tông, Bắc-tông. Chung lại cũng là phương pháp thực hành Tứ Diệu Đế. Vậy khi nào, lúc nào…

Thực hành pháp Tứ Diệu Đế cho cư sĩ tại gia!

Nơi nào có thể huân tập không gò bó vào sự sống, hoàn cảnh và tùy theo căn cơ hành giả. Như Trì Danh Niệm Phật, Tụng kinh, trì chú, Tọa Thiền, Lạy Phật.v.v.

Nơi nào không có thể huân tập vì gò bó vào sự sống. Hành giả luôn luôn tỉnh giác, giữ chánh niệm, Như Thiền minh sát, Niệm thầm.v.v.

Nhưng hai trường hợp này cũng chưa phải là rốt ráo, Thí dụ: Như trong nghịch cảnh bệnh hoạn, đời sống giàu nghèo thay đổi, chiến tranh, chết chóc sẽ đến. Thì hành giả có còn chánh niệm không!

- Sự thực ít nhiều chúng ta cũng bối rối, muốn giải quyết bối rối này thì cần phải thực tập vào đời sống hàng ngày. Mà đời sống hàng ngay chúng ta đâu hoàn toàn là thuận duyên. Hay nghịch cảnh như đã nêu ra.

- Vì vậy, thực hành ngay vào đời sống, trên sách báo, tin tức. và thực thi ứng dụng vào truyện đạo, đời, những giáo lý thi kệ trong kinh Pháp Cú. Khi chúng ta chưa được biết tới, hay không có trong trường hợp của ta. Chính là lối học thực tế cho người tu tại gia vậy.

IV. Kết luận:

1. Thực hành chính là tu sửa thân tâm (Tu tâm, dưỡng tánh.) chúng ta cần phải huân tập thường xuyên không gián đoạn. Phải tự kèm chế lại bản thân bằng sự nhẫn nhục, tinh tấn, quán niệm.

2. Tỉnh giác trong sự sống, là Sửa tánh luôn luôn trong chánh niệm. (chọn lành, tránh dữ: Xấu sửa đẹp. Dơ sửa sạch.v.v.) bằng Từ, Bi, Hỷ, Xã. Và con đường tu tập trong Kinh Pháp Cú.

Học phương pháp thực hành Tứ Diệu Ðế, mà không thực hành theo, thì không phải gọi là Hành giả. Vi Pháp hành mà không hành chính là Thuyết giả.

Học Tứ Diệu Ðế còn áp dụng chung vào Kinh Pháp Cú thì chẳng còn gì bằng. Diệu dụng rốt ráo. Trong tất cã bài kệ có màu. Tượng trưng cho. Nhân thiện / ác và Quả thiện / ác

Biết khổ chưa đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ tận gốc phải tìm nguyên nhân phát sanh ra khổ. Nguyên nhân phát sanh ra khổ là do tập đế.

Trong Thập Nhị Nhân Duyên. Khổ chính là do ái phát sanh. Mà người đời nay gọi là Tình.

Chú giải:

Quán pháp vô ngã: Pháp, theo tiếng Phạn là Dharma. tàu dịch là quỹ trì, nghĩa là năm giữ phạm vi của mình, như vuông, dài, tròn méo...để mỗi khi người ta trông đến, liền nhận biết cái nầy là gi, và khỏi lẫn lộn với vật khác. Nghĩa chữ Pháp rộng lớn mênh mông, chỉ cho tất cả mọi sự thật trên vũ trụ, chẳng những các vật hữu hình, cho đến các vật vô hình tưởng tượng như lông rùa, sừng thỏ, cũng gọi là Pháp CẢ.

Còn Ngã có nghĩa là chủ thễ, là riêng có tự tướng của mình. Người ta thường chấp các pháp đều có tự tướng của người, vật có tự tướng của vật, thế giới có tự tướng của quốc gia, xã hội có tự tướng của xã hội.

Ðã chấp có tự tướng của mình, tất nhiên thấy có tự tướng của người khác. Ðối với tự tướng của một vật, hễ về mình thì không về người khác, còn về người khác thì không về mình. Do đó, sinh ra tâm niệm nhân, ngã, bỉ thử, quí trọng, khinh rẽ, tranh chấp, đấu tranh trong xã hội.

Song, xét ra cho kỹ thì các pháp nào phải thật có "tự tướng"? Nói về lục trần thì sắc đối với không, động đối với tịnh, sanh đối với diệt...nào có cái gì riêng một mình thật có tự tướng đâu? Trần đối với căn mà có hình tướng, căn đối với trần mà có tác dụng, ngoài trần không có căn, ngoài căn không có trần. Như thế, thì biết tất cả các pháp, dù căn, dù trần cũng đều không có tự tướng.

Trong kinh Lăng Nghiên có câu: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: các nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sanh, các nhân duyên chia rẽ, thì giả dối có hoại diệt. Vậy đủ biết: tất cả các pháp làm nhân duyên cho nhau, in tuồng là có, chứ không có tự tướng. Không có tự tướng, tức là "vô ngã".

Ví như trong giấc chiêm bao, vì nhân duyên chiêm bao hiện ra thấy có cảnh nầy cảnh khác. Ðương khi ấy, người chiêm bao, cũng lầm tưởng là thật có, đến khi thức dậy, mới nhận ra đó là cảnh giả dối trong chiêm bao. Chúng ta cũng thế, vì mê lầm nên không nhận ra được sự giả dối của sự vật.

Trong khi tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với tâm, vạn pháp hiện ra giữa vũ trụ, chúng ta tưởng là thật có. thật ra, các pháp đều không tự tướng, đều là "vô ngã".

Chúng ta không biết lý "pháp vô ngã", cho nên ngoài bị hoàn cảnh kích thích, trong bị phiền não lay động, quay cuồng theo sự múa rối của giả cảnh. Vì thế, tuy muốn tự tại mà chưa lúc nào chúng ta được tự tại, muốn an vui mà chưa lúc nào được an vui, muốn thường trụ mà vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh tử.

Nếu chúng ta chứng được pháp vô ngã rồi, thì một thể vô ngã trùm khắp cả pháp giới. Cảnh cũng vô ngã, tâm thức cũng vô ngã, thì còn cái chi mà ghét, mà thương, mà chịu sanh tử luân hồi nữa.

Pháp vô ngã là lối tu giải thoát rốt ráo. Nếu ai ai cũng biết tu hạnh vô ngã một đôi phần thì đâu có sự ích kỷ hại nhân, và cảnh tượng thế giới hòa bình đâu phải là điều không thể thực hiện được?

Tứ Như ý túc là bốn phép thiền định. Nói cho rõ đó là bốn phương tiện giúp chúng ta thành tựu các tam ma địa Samadhi: (chánh định), vì thế nên cũng gọi là định pháp. "Như ý" là được như ý mình muốn. "Túc" là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy đủ.

Tứ Như ý túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần thông được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình. Bởi lý do ấy, nên cũng gọi nó bằng tên Tứ thần túc. Luận Câu xá quyển 25 có nói: "Vì sao định mà gọi là thần túc? Vì các công đức linh diệu thù thắng đều nương nơi bốn định này mà được thành tựu".

Bốn định ấy là: Dục Như ý túc, Tinh tấn Như ý túc, Nhất tâm Tứ Như ý túc, Quán Như ý túc.

Trước hết, do tu tâm hằng mong muốn (Dục), cho nên sự tu tập dũng mãnh (Tinh tấn); nhờ sự tu tập dũng mãnh, nên phiền não tiêu, tán động hết, do đó tâm được chuyên nhất (Nhất tâm), nhờ tâm chuyên nhất nên quán trí được thanh tịnh mãnh lợi (Quán), và có năng lực phá tan cội gốc vô minh.

Khi vô minh hết, thì vô số nghiệp chướng phải tiêu, hằng sa trí đức phát hiện. Người tu hành, khi trí tuệ và công đức viên mãn tức khắc đầy đủ vô biên thần dụng trong sự hiện thân, hiện độ để cứu khổ chúng sanh, chứ đâu có phải chỉ khi chứng được lục thông mới được tự tại?

Ngũ căn là năm căn. Căn đây tức là căn bản, là gốc rễ, là nguồn gốc để tất cả các thiện pháp xuất phát.
Luận Trí Ðộ, quyển thứ mười, giải rằng: "Năm căn này là căn bản để phát sanh tất cả thiện pháp, nên gọi là ngũ căn". Năm căn ấy là: Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ căn.
Năm Lực (Ngũ Lực)

Bất luận người nào, hễ đã lấy trí làm nền tảng, tinh tấn thật hành chánh pháp (tấn), hằng ghi nhứ chánh pháp để tiến tu (niệm), tập trung tư tưởng để trừ sạch vô minh phiền não, đem diệu huệ vô phân biệt (huệ) để chứng chân như, thì người ấy thế nào cũng nắm chắc trong tay quả vị vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì người ấy đã có những thần lực vĩ đại (Ngũ lực) do Ngũ căn gây tạo.

Với ngũ lực nầy, hành giả như người bộ hành có đủ phương tiện linh lợi, diệu dụng để băng rừng, vượt biển và đi đến đích cuối cùng. Ðích cuối cùng của người tu hành theo chánh pháp tức là thành Phật. Ðến đích này, người ấy là ánh sáng của chúng sinh gieo mầm an lạc. Chính người mới có đủ thần lực, diệu dụng làm cho chúng sinh trở thành những kẻ hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn giác ngộ. PHPT.

http://sites.google.com/site/layphat/tu-dieu-de

Diễn đàn: http://thiennhan.freeforums.org/
http://phapcu.wordpress.com/